Bài giảng Thứ Sáu Tuần Thánh
BÀI 1: THẬP GIÁ CỦA CHÚA – THẬP GIÁ CỦA TÔI
Lễ nghi chiều thứ Sáu Tuần Thánh được đề nghị cử hành vào lúc 3 giờ chiều (đối với những nơi phù hợp), vì theo truyền thống, Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên cây thập giá vào lúc giờ thứ chín (x. Mt 27, 45-46). Phụng vụ hôm nay mang màu sắc đau thương, nhưng không hoàn toàn bi thảm, vì thập giá của Đức Giêsu vừa là dụng cụ khổ hình, vừa là cờ hiệu chiến thắng.
Chúa Giêsu đã tự vác thập giá, từ dinh quan Philatô đến núi Canvê. Theo những khám phá từ tấm khăn liệm thành Turinô và những nghiên cứu sử học, thì người bị kết án tử hình phải vác cây gỗ ngang, còn cây gỗ dọc thì đóng sẵn trên đồi. Việc vác cây gỗ ngang nhằm tránh tử tội trốn thoát, đồng thời cũng là một nhục hình để trừng phạt. Truyền thống Giáo Hội diễn tả con đường thập giá của Chúa Giêsu qua 14 hình ảnh được gọi là “Mười bốn chặng đàng Thánh Giá”. Trên con đường này, nhiều biến cố đã xảy đến với Chúa Giêsu. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đến cuộc gặp gỡ với những người dân thành Giêrusalem. Từ những người ghen ghét chê bai nhạo cười đến những người cảm thương và giúp đỡ. Ông Simon và bà Vêrônica là hai người xa lạ và có địa vị thấp kém trong xã hội, lại là những người giúp Chúa, một người vác đỡ thập giá, một người lau mặt Chúa đang đầm đìa mồ hôi và máu. Trong hành trình thập giá, Chúa ngã ba lần, nhưng Người lại gượng dạy bước đi. Có lẽ, lời nguyện cùng Chúa Cha trong vườn Cây Dầu luôn vang lên trong tâm trí Chúa: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đó là một cuộc giằng co khốc liệt giữa sự yếu đuối của con người và sự mạnh mẽ của Ngôi Hai nhập thể. Chúa Giêsu đã dứt khoát thi hành ý Chúa Cha, chấp nhận mọi nhục hình và gian nan khốn khó. Thập giá chính là bằng chứng của sự tuân phục và hy sinh của Người.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang nhìn tôi với cái nhìn đầy yêu thương. Trong thinh lặng, Chúa nói với tôi: “Ta tha thứ mọi tội lỗi cho con”. Vì thế, chiêm ngắm Chúa trên thập giá đem lại cho tôi hạnh phúc vì thấy mình được yêu thương. Trong giáo huấn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dạy hãy tha thứ cho kẻ thù. Giờ đây, trên thập giá, Chúa dạy tôi bài học tha thứ. Lúc này, Người thực hiện lời giáo huấn ấy khi xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình. Biết bao lần tôi cố chấp muốn tự khẳng định vị thế của mình trong gia đình và trong xã hội. Sự cố chấp làm tôi mù quáng, không nhìn ra đâu lẽ phải, không nhận ra ai là anh em. Chúa Giêsu đã tha thứ trong lúc trái tim rướm máu. Điều đó cho thấy, để có thể tha thứ, phải chấp nhận hy sinh. Khi tha thứ, nhiều khi tôi phải chịu tiếng là hèn nhát, có khi tôi phải hạ mình và mất thanh danh. Tuy vậy, dù thế nào đi nữa, khi tôi tha thứ, chắc chắn tôi tìm được sự an bình thanh thản trong tâm hồn.
Khi chiêm ngắm Đấng chịu treo trên thập giá, tôi nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Viên bách quan đội trưởng là người đã tham gia vào vụ hành hình Chúa. Vậy mà vào lúc Chúa tắt thở, ông ta lại nhận ra thân thế đích thật của Người và hô lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”( Mc 15,39). Một Thiên Chúa trần trụi, bị khinh khi, khổ nhục và chịu chết vì yêu thương con người. Thập giá dạy tôi một cách nhìn nhận mới về đau khổ: Thiên Chúa đau khổ cho con người hạnh phúc. Người chết cho con người được sống. Như vậy, nếu muốn đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh, tôi không thể trốn tránh đau khổ. Muốn yêu Chúa Giêsu, tôi không được khước từ thập giá. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là một cây gỗ vô hồn; Chúa Giêsu không có thập giá không phải là Chúa Giêsu của Đức Tin.
Khi tôi chiêm ngắm Đấng chịu đóng đinh, tôi thấy những anh chị em Kitô hữu của tôi ở nhiều nơi đang bị bách hại. Chúa nhật Lễ Lá vừa qua (29-3-2015), tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các tín hữu trên toàn thế giới hãy cầu nguyện cho những tín hữu bị giết tại một số quốc gia trên thế giới. Họ là những thừa sai, những linh mục, tu sĩ và có nhiều tín hữu giáo dân. Họ đã chết chỉ vì một lý do đơn giản: họ là Kitô hữu. Qua Đấng chịu đóng đinh, tôi cũng nhìn thấy những mảnh đời bất hạnh, những người nghèo nàn, bệnh tật, đau khổ. Họ quằn quại trong nỗi đau của kiếp người mà chưa có lối thoát. Chúa Giêsu vẫn đang chịu đóng đinh nơi những người bất hạnh này. Thập giá là lời kêu gọi hãy ngưng bạo lực, hãy xử với nhau cho đúng phẩm giá con người và hãy liên đới nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, tôi thấy Người mời gọi tôi hãy vươn cao, hãy sống cao thượng, hãy hướng về trời. Dù tôi yếu đuối và tội lỗi, tôi vẫn có thể vươn cao, vì Chúa lôi kéo tôi bằng sự trợ giúp thiêng liêng. Tuy vậy, vươn cao để gặp Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh. Phải can đảm dứt bỏ những gì đang ràng buộc. “Ai theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo Chúa Giêsu là đi trên con đường hy sinh của thập giá. Như thế, thập giá không phải một kỷ niệm vô hồn của quá khứ xa vời, nhưng là chính cuộc sống hằng ngày của tôi. Mỗi ngày sống, tôi đều có cơ hội tiếp cận thập giá, điều quan trọng là thái độ của tôi thế nào trước cây gỗ mà trên đó Con Thiên Chúa đã chịu đau đớn và đã chịu chết vì yêu tôi.
Lễ nghi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh nhắc bảo tôi: Thập giá của Chúa cũng là thập giá của tôi. Khi suy niệm mầu nhiệm Mân Côi, thứ bốn của Năm Sự Thương, tôi cầu nguyện: xin cho tôi được vác thánh giá theo chân Chúa. Vâng, “Đây là gỗ thánh giá, nơi treo Đấng Cứu chuộc trần gian!”. Tôi đến để tôn kính và thờ lạy. Tôi tin chắc Đấng đóng đinh sẽ ở bên tôi. Niềm xác tín ấy giúp tôi tìm thấy thư thái và an bình.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
BÀI 2: CHẾT VÌ YÊU
Nếu cử chỉ Chúa rửa chân cho các môn đệ đã trở thành nguồn suối bất tận cho biết bao suy tư và lẽ sống làm người, thì sự kiện Chúa chết trên thập giá lại chính là nguồn suối của ơn cứu độ. Bởi thế, thứ sáu tuần thánh chúng ta lại được lắng nghe bài thương khó của Chúa và cũng ngày hôm nay, chúng ta cung kính cử hành nghi thức suy tôn thánh giá. Calvê không chỉ là đỉnh đồi nơi Đức Giêsu bị treo trên thập giá, nhưng còn là đỉnh cao yêu thương, nơi Chúa Giêsu đã đi đến cùng tận để ban phát lòng thương xót vô biên và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lời thánh Gioan vẫn là lời giải thích cho tất cả: “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Ngôn ngữ yêu thương là ngôn ngữ duy nhất có thể giúp chúng ta đi vào các sự kiện được cử hành trong tuần thánh này. Với cử chỉ rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải cho các ông một khuôn mặt mới của Thiên Chúa, một Thiên Chúa yêu thương đến tận cùng, đến mức trở thành người đầy tớ, người phục vụ. Và chưa đầy hai mươi tư tiếng đồng hồ, giờ đây, trên đỉnh đồi Calvê, Chúa lại tiếp tục mặc khải cho các ông khuôn mặt mới của Thiên Chúa, một Thiên Chúa cứu độ hay một Thiên Chúa yêu thương-cứu độ. Với việc rửa chân, một việc làm có tính cách tượng trưng thì giờ đây, trên đỉnh đồi Calvê này, cái chết của Chúa không chỉ là một cái chết tượng trưng mà chính là cái chết thật. Lê từng bước lên đỉnh đồi Calvê, giang hai tay trên cây thập tự, chấp nhận một cái chết đau thương, Chúa chỉ muốn nói lên một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, yêu thương vô cùng vô tận. Đó là một mặc khải cuối cùng và dứt khoát. Nguồn suối của ơn cứu độ chính là thế.
Diễn tả điều này, thư gửi tín hữu Do-thái trình bày dưới hình thức tế tự: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa” (4,14-16;5,7-9). Tác giả thư Do-thái như có ý nói đến Chúa Giêsu đang bị treo trên thập giá. Nhìn bề ngoài, người ta chỉ thấy Người như một tử tội, nhưng thư Do-thái lại khẳng định Vị Tử Tội đó chính là Vị Thượng Tế. Một vị Thượng Tế siêu phàm tức là Vị Thượng Tế có một nguồn gốc thần linh. Ngài đã băng qua các tầng trời mà đến với chúng ta. Đến với chúng ta, Vị Thượng Tế này đã làm gì? Thư gửi tín hữu Do-thái nói tiếp: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội”. Những câu sau đây nói rõ Vị Thượng Tế đó là chính Đức Giêsu: “Khi còn sống kiếp phàn nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”.
Những câu trên vén mở cho ta hình ảnh một Vị Thiên Chúa rất mới mẻ so với Cựu Ước. Ngài là một Vị Thiên Chúa “biết cảm thương”, biết “lớn tiếng kêu van khóc lóc”, một Vị Thiên Chúa rất gần với con người nên đã đồng cảm với con người, đồng cảm sự yếu hèn, nước mắt, khổ đau và cái chết. Ơn cứu độ từ nay không còn đến từ một nơi xa xôi, nhưng bắt đầu ngay trong lòng con người. Chính trong sự yếu hèn, trong những cay đắng của cuộc đời, những thập giá của cuộc sống, con người tìm được ơn cứu độ. Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người tận căn, vực con người trỗi dậy từ cõi chết. Từ nay, không còn có một sức mạnh nào có thể dập tắt được niềm hy vọng. Đấng đang chịu treo trên thập giá ở đỉnh đồi Calvê chính là sức mạnh vô song cho tất cả những ai tin vào Người.
Lm. Giuse Dương Hữu Tình
Nguồn: gphaiphong.org