Bài giảng Chúa Nhật 13 thường niên – Năm B
Tác giả Mác-cô đã lồng ghép hai sự kiện vào với nhau. Cả hai đều nhằm kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ để chữa người đàn bà bệnh tật lâu năm và phép lạ kia làm cho em bé đã chết được sống lại.
BÀI 1: HIỆU QUẢ CỦA LÒNG TIN
Hai người được lãnh nhận ơn ban qua phép lạ có hai thể loại đức tin khác nhau. Người phụ nữ có đức tin âm thầm; viên cai quản Hội đường lại có đức tin được công khai tuyên xưng mạnh mẽ. Người phụ nữ chỉ mong sao chạm được vào áo Chúa; viên cai quản Hội đường lại sấp mình nài nỉ van xin.
Cả hai hình thức đức tin đều xuất phát từ lòng xác tín và cậy trông. Hai người đều tin chắc chắn rằng Đức Giêsu có thể làm được điều họ đang kêu xin. Tuy vậy, xem ra sự xác tín của người phụ nữ có vẻ mạnh mẽ hơn. Bà không dám được Chúa biết đến hay can thiệp. Bà chỉ cần chạm vào áo Người. Trong khi đó, viên cai quản Hội đường, khi thấy con mình đã chết, đã bị dao động băn khoăn. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều nhắc đến “đức tin”. Nếu Người ngỏ lời với người phụ nữ để khen đức tin của bà, thì với viên cai quản Hội đường, Người lại mời gọi ông hãy vững tin. Người hiểu tâm trạng của ông khi nghe tin con mình đã chết.
Dù với hình thức nào chăng nữa, đức tin luôn luôn là điều kiện để được lĩnh nhận ơn Chúa. Nếu có đức tin, thì ngay cả sự chết cũng không còn là một điều đáng sợ. Ý tưởng “sự chết – sự sống” được nhấn mạnh trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa làm chủ sự sống. Ngài là Đấng tạo dựng sự sống. Sự sống đến từ Thiên Chúa. Sự chết do ma quỷ đem lại. Như thế, đức tin đem lại sự sống và khước từ niềm tin là nguyên nhân sự chết. Khi mời gọi các tín hữu hãy củng cố đức tin vào quyền năng Thiên Chúa, Phụng vụ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta về tình thương bao la của Ngài. Quả thật, “Thiên Chúa không làm ra cái chết, Ngài chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Bài đọc I). Ngài không bao giờ là tác giả của điều ác, vì bản chất của Ngài là tốt lành và thánh thiện.
Vì con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa” (x. St 1,27), mỗi tín hữu có sứ mạng làm cho sự tốt lành của Chúa lan tỏa nơi lòng cuộc đời. Nếu hôm nay, Đức Giêsu không hiện diện hữu hình bằng xương bằng thịt để chữa lành những bệnh nhân, thì Người lại đang mượn cánh tay và tấm lòng của chúng ta để đem tình thương đến cho người bất hạnh, đem niềm vui cho người sầu khổ và đem tự do cho người bị giam cầm. Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu thành Côrinhtô hãy quảng đại trong cuộc lạc quyên giúp người nghèo. Theo vị Tông đồ dân ngoại, Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta về lòng quảng đại, vì Người là Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em được giàu có” (Bài đọc II). Mọi sự chúng ta có đều do Chúa ban. Hơn nữa, chúng ta giàu có là do Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta. Chính vì thế, san sẻ cho tha nhân là chúng ta làm cho hình ảnh Chúa trở nên rạng ngời nơi cuộc đời này. Sự sẻ chia không làm cho chúng ta nghèo đi, nhưng trái lại, giúp cho chúng ta trở nên phú quý hơn trong cuộc sống.
Người đàn bà bị bệnh đã mười hai năm được Chúa chữa lành. Bé gái con ông trưởng hội đường đã chết được Chúa cho sống lại…. Biết bao điều kỳ diệu hôm nay Chúa vẫn đang thực hiện nơi lòng cuộc đời, nếu chúng ta có đức tin vững vàng và lòng cậy trông sâu xa.
Giữa những thử thách phong ba của cuộc đời, nhiều khi đức tin của chúng ta bị chao đảo, như chiếc thuyền tròng trành giữa đại dương. Xung quanh chúng ta, mỗi ngày có biết bao điều xảy đến, như sự chết, tai nạn, bệnh tật. Trước những “vấn nạn” này về cuộc sống, nhiều người đã bị dao động đức tin vào một Thiên Chúa tốt lành và yêu thương. Lời Chúa giúp chúng ta xác tín: Ngài không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ. Giữa thử thách đau thương, Thiên Chúa luôn nâng đỡ và thêm sức cho chúng ta. Nếu biết cậy dựa vào Ngài, chúng ta sẽ có đủ nghị lực vươn lên và tìm được niềm vui giữa những khó khăn trắc trở trên đường đời. Chesterton, văn sĩ, thần học gia và triết gia người Anh (1874-1936) đã viết: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự đều tùy thuộc vào Thiên Chúa. Hãy hành động như thể mọi sự đều tùy thuộc vào chúng ta”. Quả vậy, khi quyền năng của Thiên Chúa và nghị lực của con người gặp gỡ nhau, thì những điều kỳ diệu sẽ xảy đến trong cuộc đời.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
BÀI 2: NIỀM TIN CỤ THỂ
Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày chủ nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm ô gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo ô để chuẩn bị đón mưa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay có một chi tiết giống như vậy: Đức Giêsu hỏi : "Ai đã sờ vào áo tôi ?" Một câu hỏi có vẻ thật vô lý trong hoàn cảnh ấy. Vì thế các môn đệ đã thưa: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: "Ai đã sờ vào tôi?" Nhưng Đức Giêsu lại thật có lý, vì cũng như bao nhiêu người đến cầu mưa, nhưng chỉ cậu bé 9 tuổi mang theo ô để che mưa, bao nhiêu người chen lấn Chúa, nhưng chỉ có người phụ nữ được chữa lành bệnh tật, vì bà đã tin.
Niềm tin của người phụ nữ và của người cha trong bài Tin Mừng hôm nay, có thể nói được là niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Vì người phụ nữ đã bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán gia bại sản, nghĩa là không còn có thể bám víu vào đâu nữa, chỉ còn đặt trọn vẹn niềm hy vọng vào một mình Chúa Giêsu mà thôi. Niềm tin của người cha cũng bị đẩy đến mức đó khi có mấy người từ nhà ông đến nói: "Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?". Nhưng ông đã được Chúa khích lệ: "Đừng sợ, chỉ cần tin thôi". Cuối cùng cả hai người đã thấy được những điều họ tin, như thánh Augustinô đã nói: "Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin".
Phải chăng, trong cuộc đời ít khi chúng ta thấy được những điều mình tin? Có lẽ vậy(!)
Phải chăng vì niềm tin của chúng ta đặt vào Chúa còn nửa vời, chứ đâu có như người phụ nữ hay người cha kia. Hay như tổ phụ Abraham đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống ổn định nơi quê hương, đến một nơi như thế nào chẳng biết, chỉ biết là nơi Chúa đã chọn cho mình – chẳng phải là tin tuyệt đối vào Chúa sao? Rồi Isaac là đứa con của lời hứa, là niềm hy vọng để dòng dõi mình đông đảo như sao trên trời, cát bãi biển; vậy mà Chúa bảo sát tế nó để dâng cho Chúa, ông cũng làm theo – chẳng phải là tin tuyệt đối vào Chúa sao?
Khi nào trong cuộc sống chúng ta còn tồn tại những giải pháp khác ngoài giải pháp của niềm tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu; khi nào chúng ta còn để chuyện cơm áo gạo tiền, cũng như những nhu cầu và thú vui của cuộc sống lấn át niềm tin vào Chúa, thì chúng ta còn chưa thấy được những gì chúng ta tin.
Lạy Chúa, con tin. Nhưng xin củng cố niềm tin trong con Chúa ơi. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Văn Thục