Các chứng nhân Kitô giáo – Tử đạo Việt Nam
Hằng năm cứ vào dịp đại lễ kính nhớ Tổ tiên ông bà Tử Đạo Việt Nam, đoàn tín hữu, con dân đất Việt lại thêm một lần được củng cố niềm tin. Ít ra, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Để sống xứng danh là cháu con các anh hùng tử đạo, Kitô hữu Việt Nam cần hiên ngang, anh dũng một cách nào đó trong niềm tin, trong cách sống đạo của mình. Trong tâm tình ấy, xin phác họa đôi nét về chân dung các Thánh Tử đạo Việt Nam như là những chứng nhân Kitô giáo.
1. Chứng từ khả tín của các chứng nhân: Xin được gọi các Ngài bằng nghĩa gốc của từ “tử đạo” là “chứng nhân” (martyr). Thiết tưởng cần trở về với nghĩa gốc là chứng nhân hơn là tử đạo, cho dù hai từ tử đạo đã quá phổ biến trong cách dùng. Bởi vì hai từ tử đạo có vẻ như đang bị méo mó ý nghĩa một cách nào đó khi mà vô tuyến truyền hình tường thuật những người ôm bom tự sát để giết hại nhiều người, trong đó có cả thường dân vô tội, và họ cũng tự cho là tử vì đạo. Hơn nữa một thánh tử đạo trong tôn giáo này chưa chắc được kính trọng bởi người của tôn giáo khác cho bằng các thánh hiển tu hay các thánh xả thân vì tình yêu đồng loại.
Nói đến chứng nhân là nói đến những người dùng chính cuộc sống của mình, dùng cả sự sống và sự chết của mình để làm chứng cho một lý tưởng cao đẹp như nền hòa bình của nhân loại hay sự độc lập tự do của dân tộc…hoặc cho một niềm tin tôn giáo. Khi có ai, có một tập thể nào hiến dâng cả cuộc sống, hiến dâng cả mạng sống để làm chứng về một chân lý nào đó thì chứng từ ấy có tính khả tín nghĩa là chân lý có tính thuyết phục và đáng tin theo. Tuy nhiên mức độ khả tín của các chứng từ còn tùy thuộc vào cách thế làm chứng của các chứng nhân.
Qua cuộc sống, nhất là sự hiến dâng mạng sống của các chứng nhân Kitô giáo, của cha ông anh hùng hy sinh vì đức tin, chúng ta nhận ra mức độ trỗi vượt của tính thuyết phục nơi cách làm chứng của các Ngài. Nếu xét về hình thức chịu cực hình cho đến chết như bị “rũ tù” (bị tra tấn và giam tù cho đến chết), “xữ giảo” (bị thắt cổ cho chết),”xữ trảm” (bị chém đầu), “lăng trì” (bị ném cho voi chà đạp, xé xác), hay “bá đao” (bị róc từng mãnh thịt cho đến chết), thì các bậc cha ông chúng ta tuy có bị khổ hình ghê rợn, thế nhưng các anh hùng dân tộc nhiều khi cũng đã can đảm đón nhận các cực hình tương tự không kém.
Nét trỗi vượt và cũng là nét khác biệt nơi chứng từ của cha ông chúng ta đó là cách thế đón nhận khổ hình. Không một ai tự mình quyên sinh và nhất là khi bị khổ hình, không một ai căm phẩn, hận thù hay hô đả đảo những người bắt bớ, giết hại mình. Các Ngài khoan thai, an bình, có khi tỏ vẻ hân hoan và cầu nguyện cho cả người giết hại mình đến độ nhiều “đao phủ” đã phải thành khẩn xin tha thứ trước khi hành hình các Ngài. Một thái độ làm chứng nhân khó thấy, hiếm thấy và có thể nói là không thấy có nơi các anh hùng dân tộc khi chịu cực hình, chịu chết vì lý tưởng. Và đây chính là nét khả tín tuyệt vời của nhứng chứng nhân bỏ mình vì “danh Đức Kitô”.
2. Nội hàm chứng từ của các chứng nhân Kitô giáo: Nghĩa là các chứng nhân Kitô giáo, cách riêng tổ tiên anh hùng Việt Nam chúng ta đã hiến dâng cả cuộc sống, cả mạng sống để làm chứng về những điều gì? Xin thưa đó là về “chân lý đức tin” và “Tin Mừng cứu độ”.
Chân lý đức tin: Chân lý đức tin Kitô giáo thì nhiều, nhưng có thể nói một chân lý nền tảng mà tổ tiên ta đã anh dũng làm chứng đó là: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, ta phải tôn thờ và yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ta, vì ngoài Người ra thì không có đấng nào khác (x.Dnl 6,4-7; Mc 12,28-34).
Tôn thờ một ai đó, một Đấng nào đó là nói lên sự thần phục, sự lệ thuộc của mình với Đấng ấy, với người ấy. Môt trong những hình thức biểu lộ sự thần phục hay thờ phượng đó là sự phủ phục. Ta phủ phục trước một Đấng nào đó là ta nhìn nhận những gì ta đang là, ta đang có đều do Đấng ấy ban tặng. Kitô hữu chỉ dâng tâm tình thần phục, phượng thờ này lên một mình Thiên Chúa mà thôi. Và dĩ nhiên tâm tình, thái độ ấy kéo theo hệ quả tất yếu là xem các loài khác như mặt trời, mặt trăng, sông núi…chỉ là loài thọ tạo do Chúa dựng nên. Ngay cả loài thọ tạo cao trọng nhất trong các loài hữu hình là loài người thì dù là kẻ quyền thế, nhiều tiền, cao đức, trọng vị…cũng chỉ là loài phàm hèn không hơn không kém. Có thể có người, có vị đáng trọng, đáng kính vì tài đức cao dầy, nhưng không phải là người để ta phải lệ thuộc hay thần phục, nghĩa là bày tỏ sự tôn thờ.
Sự thường một ai đó, khi đã ở ngôi cao, khi đã nắm trong tay quyền lớn thì rất dễ bị cám dỗ muốn tuyệt đối hóa uy quyền của mình. Và một trong những cách thế để tuyệt đối hóa quyền lực và danh phận của mình thì phải tự phong thần, phong thánh cho mình bằng cách này cách khác. Các vua chúa ngày xưa đã từng tự xưng là thiên tử (con trời) và thế là bắt mọi người thần phục mình cách tuyệt đối. Nếu sống và hành xử như “con của trời” thì vẫn tốt, đằng này họ lại hành xử như là những“ông trời con”. Xưa vua Nabunôcônôdo của đế quốc Ba Tư ngày xưa đã cho tạc tượng mình để bắt thần dân thờ lạy. Và nay vẫn có người, có tập thể muốn kẻ khác lệ thuộc mình bằng việc “thần thánh” hóa bản thân hay luật pháp hóa cái thể chế, cái tổ chức, cơ cấu của mình.
Ngày nay người ta khi đã có quyền, có thế cũng có thể bắt kẻ khác suy tôn mình, suy tôn tập thể của mình…là muôn năm, là bất diệt… Và thế là hễ có ai không chịu thần phục, không chịu lệ thuộc thì tức khắc sẽ bị bắt bớ, đàn áp, thậm chí là loại trừ. Vác thập giá là thân phận của Kitô hữu mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên đó là niềm vinh dự cho đoàn con cái Chúa, vì là cách thế tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất hùng hồn và rõ nét.
Tin Mừng cứu độ: Đây cũng là một điều chính yếu nữa mà các anh hùng “tử đạo” đã làm chứng bằng giá máu của mình. Tin mừng cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa đuợc thể hiện cách hoàn hảo, trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô chính là Tin Vui, Tin bình an cho nhân loại và cho mọi loại. Cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Đức Kitô là Tin vui, tin an bình cho con người. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Không phải chỉ yêu thương những người dễ yêu, yêu những người thân cận, người làm ơn làm phúc cho mình…mà còn yêu cả những người bé mọn, cô thế, cô thân, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hay chính kiến và yêu cả những người thù ghét mình, làm hại mình (x.Lc 6,27-35).
Tổ tiên ông bà “tử đạo” chúng ta đã mình chứng cho Tin vui cứu độ ấy bằng cuộc sống của mình cho dù phải bị hiểu lầm là bỏ ông, bỏ bà, bỏ tổ tiên, cho dù phải bị gán ghép là phản quốc, bán dân hại nước. Quả thật với một tình yêu không biên giới ấy, xưa kia Đức Giêsu đã từng bị nhiều người đồng hương Nagiarét căm phẩn tìm cách xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,28-29). Người cũng đã từng bị nhiều người tự cho mình là công chính tố cáo là hay lui tới và cùng ăn uống với “quân thu thuế và phường tội lỗi” (x.Lc 15,1-2).
Trò không thể hơn thầy. Nếu người ta đã đối xử với Thầy Giêsu ra sao thì các môn đệ cũng sẽ chung số phận ấy nếu họ sống chứng nhân cho Chân lý đức tin và cho Tin Mừng tình thương (x.Ga 15,18-27). Chân dung các chứng nhân đã được một tác giả vô danh khoảng đầu thế kỷ thứ II mô tả cách sống động như sau:“ Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt lên trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, nhưng lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi sự, nhưng lạ dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiên, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ làm như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như những kẻ ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, còn những kẻ ghét họ thì không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ” (Trích thư gửi ông Điônhêtô – Bài đọc 2 – Kinh Sách Mùa Phục Sinh – Thứ Tư – Tuần V).