Lễ Dâng Chúa trong Đền thờ – Chúa nhật IV Thường niên A
Từ truyền thống xa xưa, ngày lễ được cử hành vào ngày 2-2 dương lịch được gọi là “Lễ Nến”, bởi trong thánh lễ có nghi thức làm phép Nến. Có một thời, người ta coi ngày lễ này là lễ kính Đức Maria, dựa trên trình thuật của Thánh Luca về việc Đức Maria mang lễ vật dâng vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Từ năm 1969 lễ này không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, với mục đích quy hướng chúng ta về Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai đã đến trần gian để cứu độ nhân loại.
Khi gọi ngày lễ này là lễ “Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ”, phụng vụ muốn nhắc tới sự kiện Đức Mẹ và Thánh Giuse thực hiện điều được quy định trong luật Môi-sen. Đây là những quy định chúng ta có thể đọc thấy trong sách Xuất Hành, sách Lêvi và sách ngôn sứ Isaia (Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6). Nội dung những khoản Luật này nói về nghi thức dâng con đầu lòng cho Chúa vào thời điểm khoảng 40 ngày sau khi con trẻ được sinh ra. Nghi thức này vừa khẳng định những trẻ nam đầu lòng thuộc về Chúa, vừa là nghi thức thanh tẩy đối với người phụ nữ sau khi sinh. Bởi lẽ, theo quan niệm Do Thái xưa kia, sau khi sinh con, người phụ nữ trở thành “ô uế”.
Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép, tức là đem Hài Nhi Giêsu dâng cho Chúa. Theo Thánh Luca, nghi thức dâng Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ kỳ diệu: Hai người đạo đức là Ông già Simêon và Bà Anna được hạnh phúc bồng bế hài nhi Giêsu trên tay mình. Họ là những người từ nhiều năm hằng trông đợi Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” (Lc 2,22-40). Phụng vụ Kitô giáo diễn tả nghi lễ này như một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Dân của Người. Lần đầu tiên, Chúa Giêsu hiện diện trong Đền thờ, là trung tâm của Do Thái giáo, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Ngài. Việc Chúa đến mở ra một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ. Ngài sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và thánh hóa con người. Người cũng làm cho những hy lễ dâng tôn thờ Thiên Chúa Cha mang một ý nghĩa mới. Đây cũng là điều chúng ta đọc trong Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia. Vị ngôn sứ đã thông báo: “Này đây Người đến. Khi Người đến, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và làm cho chúng thanh sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình”. Chúa Giêsu xuất hiện trong Đền thờ để thân thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Chúa”. Sau này, Người còn đến Đền thờ nhiều lần, không phải để thi hành công việc tế tự, nhưng để thanh tẩy Đền thờ. Trong giáo huấn của Người, Chúa cũng kịch liệt lên án một thứ phụng tự chuộng hình thức, xa rời tình yêu và thiếu vắng thương xót, để kêu gọi mọi người hãy tôn thờ Chúa trong tinh thần và Chân lý.
Qua nghi lễ dâng Hài Nhi Giêsu dâng trong Đền thờ, Đức Maria và Thánh Giuse đã chu toàn những điều Luật dạy. Phụng vụ Kitô giáo cũng nhìn thấy ở đây sự hạ mình của Con Thiên Chúa. Đức Giêsu mang lấy thân phận con người và sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Tác giả thư Do Thái khẳng định: Chúa Giêsu trở nên giống như anh em mình mọi đàng, nhờ đó, Người trở thành vị Đại Giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa. Vì là người như chúng ta, Đức Giêsu cảm thông với chúng ta, chia sẻ những tâm tư của phận người, nâng đỡ những ai chịu thử thách và đem cho họ ơn niềm vui ơn cứu độ (Bài đọc II).
“Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israen Dân Chúa”. Đó là lời ca tụng của cụ già Simêôn. Lời ca tụng này diễn tả chủ đề chính yếu của Phụng vụ hôm nay. Chủ đề “Ánh Sáng” được nhấn mạnh trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh và Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Ngày hôm nay, một lần nữa, chủ đề này lại được nhắc tới. Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Người đến để chiếu soi đêm tối nơi lòng người. Đó là đêm tối của hận thù, chia rẽ, tội lỗi và sự chết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn giới thiệu với chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Người đã chữa cho người mù từ khi mới sinh, không chỉ con mắt thể lý, mà còn con mắt tâm hồn. Nhờ đó anh trở nên sáng mắt và sáng suốt nhận ra Người là Đấng Thiên sai và Đấng Cứu độ trần gian.
Năm 1997, thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã thiết lập lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ là ngày Quốc tế của đời sống thánh hiến, với ước nguyện những ai dấn thân sống đời tu trì trở nên giống Chúa Giêsu và trở thành ánh sáng cho trần gian.
Trở nên ánh sáng là ơn gọi của các Kitô hữu, như Chúa đã nói. Tuy vậy, những người sống đời thánh hiến lại tình nguyện sống triệt để lời gọi này qua việc khấn giữ ba nhân đức Phúc âm, đó là Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước, ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui. Ngài cũng khích lệ các tu sĩ nam nữ: anh chị em hãy đánh thức thế giới bằng đời sống thánh thiện và hy sinh của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai sống đời sống thánh hiến, biết tỏa sáng xung quanh bằng sự thánh thiện đơn sơ, với lòng yêu mến chân thành và nhiệt huyết tông đồ. Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em là ánh sáng thế gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Một câu chuyện do chính Mẹ Têrêxa kể lại: một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt:
– “Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.
Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:
– “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”. Người đàn ông này đáp: “Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:
– “Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin cho chúng con tiếp nhận từ nơi Chúa ánh sáng thiêng liêng, để chúng con biết đường đi đến Chân Lý, đồng thời trở nên ánh sáng cho những người xung quanh. Amen.
+ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: gphaiphong.org